Tục vẽ mắt thuyền

Tục vẽ mắt thuyền
Bài viết của Nguyễn Thanh Lợi
Họ xem thuyền cũng như cá, một sinh vật dưới biển, cho nên phải có mắt để thấy đường đi và tránh nguy hiểm.Một truyền thuyết khác ở Nha Trang (Khánh Hoà) cho rằng, vẽ mắt “thuồng luồng” trên mũi thuyền sẽ tránh cho thuyền bị các loài thuỷ quái dưới biển làm hại.
– Một câu chuyện nữa lại kể, ông vua Việt Nam đầu tiên là người vẽ mắt trên thuyền của mình, do có một vài hạ thần của ông bị các kình ngư, mà người ta phỏng đoán là cá mập, ăn thịt. Ông ra lệnh cho các hạ thần của ông phải xăm mình và trang trí vỏ thuyền sao cho có hình dạng dữ tợn để xua đuổi các quái vật dưới biển. Một trong những cách trang trí đó là vẽ cặp mắt trên thuyền.
– Có giả thuyết lại cho rằng, mắt thuyền là mắt chim ó, loại chim lớn chuyên ăn cá trên biển, thường xuất hiện khi có gió to sóng lớn. Đây là một sinh vật hung hăng, căn cứ theo thuyết “Nhứt điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng” để làm khiếp đảm các loài thuỷ quái.
Theo J.B.Piétri trong công trình Thuyền buồm Đông Dương, nước ta tiếp thu tục lệ này từ thuyền bè các nước Arập. Các thuyền này từ Levant (các nước tiếp giáp Địa Trung Hải) trên đường qua Trung Hoa có ghé qua các hải cảng ở biển Đông. Theo Tân Đường thư, Địa lý chí, vào các tk VII-X, trên con đường biển từ Quảng Châu (Trung Hoa) đến Baghdad (Irắc), thuyền bè các nước Trung Hoa, Iran, Arập, Srivijaya (Indonesia) bao giờ cũng ghé qua Chiêm Bất Lao (cù lao Chàm, Quảng Nam), Lăng Sơn Môn Độc (Vijaya, Qui Nhơn), Cổ Đát Quốc (Kauthara, Nha Trang), Bôn Đà Lãng Châu (Panduranga, Phan Rang). Và người Arập lại bắt chước việc vẽ các con mắt thuyền của Ai Cập. Nhưng Donnelly lại cho rằng tục vẽ mắt thuyền bắt nguồn từ Arập và Ai Cập. Ông đưa ra những bằng chứng là những con thuyền chạy sông và thuyền đi biển ở miền Bắc thời xưa như thuyền buồm Pechili và Antung đều không có mắt và chỉ thấy trên những thuyền đến từ các hải cảng TQ, nơi mà các thương thuyền Arập thường ghé đến mua bán. Chẳng hạn như Taputo, một nơi định cư quan trọng của Arập vào tk IV. Qua các tư liệu vừa dẫn ở trên, chúng ta thấy nhận xét của Piétri về nguồn gốc tục vẽ mắt thuyền ở Vn không được chính xác, vì ít nhất từ tk I TCN trên các di vật văn hoá của nước ta (trống Ngọc Lũ, Quảng Xương, Cổ Loa…) đã có thấy mắt thuyền nhưng không loại trừ khả năng tập tục này ở nước ta có chịu ảnh hưởng của các nước, nhất là trong khu vực Ấn hoá như Chămpa, Malaisia, Indonesia… địa bàn phân bố phổ biến từ Quảng Bình trở vào.
– Mắt ghe (thuyền) từ Bà Rịa-Vũng Tàu trở ra phía Bắc có đặc điểm chung là mắt nhỏ, đuôi mắt dài, tròng sơn đen trên nhãn cầu màu trắng, mang ghe dài.
– Ghe lưới rùng Phước Hải (Bà Rịa-Vũng Tàu) mắt tròn, hơi dẹt, có vẽ hình âm dương giữa thân ghe. Mắt ghe ở Phước Hải, Phước Tỉnh cũng giống như vậy. Ghe bầu Mũi Né (Bình Thuận) mắt dẹt, dài, đuôi tròng nhọn về phía sau. Ghe câu Bình Thuận mắt rất dẹt, bầu, hơi cong và nổi bật. Mắt ghe đua vùng Phan Thiết giống hình mắt phượng đuôi dài, tròng tròn, viền vàng, tao cho ghe cái vẻ sắc sảo, tự tin, chiến thắng.
– Ghe câu Phan Rang (Ninh Thuận) mắt dẹt, dài và lớn hơn mắt ghe ở Bình Thuận.
– Ghe giã Bình Định có mắt dẹt, dài; tròng hình thoi dẹt và chiếm đều ở giữa mắt; đuôi mắt nhọn. Ghe song vành của ngư dân đánh cá mập có mắt ghe cũng gần giống ghe giã Bình Định.
– Ghe bầu Quảng Ngãi có mang ghe lớn, mắt thon dài, tròng nhô sát về phía trước.
– Ghe câu Hội An (Quảng Nam) mắt dẹt, dài, tròng thoi sát về phía trước. Trong khi đó ghe trương cũng ở vùng này lại có mắt bầu tròn, hơi dẹt, gần giống mắt ghe ở Nam Bộ.
– Ghe nang ở Đà Nẳng và ghe giã Quảng Trị giống mắt ghe ở Bà Rịa-Vũng Tàu.
– Ghe câu ở Quảng Khê (Quảng Bình) đuôi mắt dài, thon.
– Ghe mành Nghệ An đầu mắt nhọn, đuôi mắt thon bầu; tròng dẹt, dài, nhọn về phía trước. Hai con mắt chạm gỗ, nhãn mắt màu vàng với đường viền đỏ. Riêng ghe mành ở Cửa Lò lại có mắt tròn, tròng tròn đồng tâm với mắt hoặc có hình elip.
– Ghe mành vùng hạ lưu sông Hồng có mắt to, chạm gỗ, sơn đỏ hoặc đen. Ghe mành Hạ Long không có mắt ở mũi thuyền.
– Mắt ghe từ Sài gòn đến Kiên Giang cùng chung đặc điểm là mắt tròn, tròng đen, nhãn trắng, mang ghe được trang trí nhiều kiểu dáng khác nhau với đường viền trắng chạy xung quanh.
– Miền Tây Nam Bộ là trường phái đóng ghe Cần Đước (Long An), hoạt động từ cuối tkXIX đến nay. Nơi đây chuyên đóng các loại ghe lớn, chạy nhanh, chở khoẻ và có dáng đẹp, đi sông đi biển đều tốt. Ghe có mũi nhọn dựng cao, sơn màu đỏ tươi, lườn sơn màu xanh, mắt vẽ tròn xoe, tròng đen to choán gần hết con mắt.
“Ghe ai đỏ mũi, trảng lườn
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em?”
– Mắt ghe ở Cần Thơ cũng thuộc loại này. Ghe ở Cà Mau nhãn và tròng hình thoi dẹp, đầu mắt nhọn, thường được vẽ hơn là chạm gỗ, một số mắt có tròng gần như hình tam giác đều có góc tròn, nhất là ở những chiếc vỏ lãi bằng nhựa composit.
– Ghe của vùng Trà Vinh mắt có độ lớn vừa phải, tròng đen với hình ôval nằm ngay tâm mắt. Mắt ghe vùng An Giang có hình elip, tròng rất nhỏ, nằm gần về đầu mắt, mang ghe sơn màu xanh dương.
– Ghe vùng Rạch Giá, Phú Quốc (Kiên Giang), vịnh Thái Lan thường có mắt tròn, sơn đen và đỏ trên nền xanh, nhưng lại nhìn cúi xuống như ghe câu Phú Quốc chẳng hạn. Các loại ghe hàng, thường gọi là “ghe Kiên Giang” gốc Rạch Giá, hoạt động từ Rạch Giá đến Vũng Tàu, mắt tròn lớn và gần nhau, nằm sát lô mũi (stem). Ghe cửa miền Tây có mũi nhọn, mắt tròn to, có ghe vẽ hình âm dương nơi vị trí mắt thuyền. Ghe vùng Mỹ Tho (Tiền Giang) hai con mắt chạy sát về trước mũi thuyền.
Cúng khai nhãn nhằm làm cho nhãn sáng sủa, lanh lợi, ghe thuyền đi đúng hướng và tránh được rủi ro, tai nạn dọc đường. Ngư dân ở Vũng Tàu còn có lệ nhờ thầy pháp xem ngày lành để vẽ mắt thuyền, nếu không thì chọn ngày chẳn. Các chủ thuyền không bao giờ cho người lạ sờ vào hai con mắt thuyền vì sợ bị yếm đối.
Lễ khai quang điểm nhãn (lễ mở mắt) còn thấy trong các nghi thức xá mã (đốt hình ngựa), xá hạc (đốt hình hạc) trong các khoa nghi của Phật giáo như trai đàn chẩn tế; trong múa hẩu (có ý nghĩa xuất quân đi trấn áp tà ma, quỉ mị), trong lễ vía Huyền Thiên Thượng Đế Chơn Võ và lễ hội chùa Bà Thiên Hậu ở thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương) của cộng đồng người Hoa Phước Kiến; trong múa lân; trong tập tục thờ ông Địa, thần Tài.
– Vào năm 2700TCN, trên những chiếc thuyền lớn của Ai Cập đã có vẽ một con mắt lớn của thần Osiris. Đây là một vị thần Ai Cập, ban đầu là thần ruộng đất, tượng trưng cho sức mạnh vô tận của cỏ cây, sau đó được đồng nhất hoá với mặt trời buổi đêm, tượng trưng cho tính liên tục của các chu kỳ sinh nở và tái sinh.
– Trên các con thuyền Hy Lạp vào năm 450TCN và các con thuyền La Mã vào năm 100 trước Công nguyên đều vẽ các con mắt trông rất sinh động.
– Tại Lào, người ta cho các tàu thuyền những cặp mắt bằng cách giả vờ hiến sinh một thiếu nữ và lấy mắt cô ta gắn lên mũi thuyền. Mũi thuyền độc mộc ở Bali (Indonesia) thì vẽ đầu Makara, một con quái vật biển trong các tranh tượng Hindu giáo, phát sinh từ con cá heo, con vật huyền thoại nửa voi nửa cá, biểu tượng của các vùng sông nước.
– Các thuyền rồng Bắc Âu lại trang trí bằng một chiếc đầu rồng, còn thuyền Hy Lạp và La Mã thì cúi nhìn sóng nước bằng những đôi mắt lợn rừng hoặc cá heo.
– Trong các quần đảo Mélanésie (Australia), Trobriand (Papua New Guinea), thuyền độc mộc tham dự lễ trao đổi tặng phẩm (kula) được trang trí nhiều hình chạm khắc ở mũi thuyền, thể hiện vị anh huyền huyền thoại Manikiniri dưới hình dạng một con rắn đem lại sự sống. Vị anh hùng – rắn và chiếc thuyền trở thành một sinh vật duy nhất và đồng nhất. Để thể hiện tác phẩm đó, nhà điêu khắc có khi phải trải qua thời gian học nghề kéo dài hơn 20 năm.
– Thuyền ở đảo Hải Nam và Pakhoi (Quảng Đông, Trung Quốc) có mắt to, tròn hay oval, màu trắng, tròng đen, chạm nổi.
Trên hình thuyền trang trí ở thạp Đào Thịnh có cả một bay chim đang bay lượn với nhiều dáng vẻ khác nhau, ở đầu thuyền đáng chú ý có vẽ con mắt chim to tròn với tròng đen. Nhiều bộ sử Trung Quốc đã ghi lại:”Người Việt vẽ mình, cắt tóc để tránh cái hại giao long”(Hán thư, Địa lý chí hạ). Trong Lĩnh Nam chích quái:”dân miền chân núi làm nghề chài cá, thường bị giao long làm hại, mới kêu Hùng Vương. Hùng Vương nói:loài ở chân núi với loại thuỷ tộc khác nhau. Loài kia ưa đồng loại mà ghét dị loại cho nên làm hại. Bèn khiến người ta lấy mực mà xăm mình thành hình thuỷ quái, từ đó không còn nạn giao xà làm hại nữa. Cái tục xăm mình bắt đầu từ đó”.
– Cư dân vùng sông nước xem con thuyền của mình như một”vật linh”, một sinh vật có hồn. Họ quan niệm con thuyền cũng như con người, do đó cần phải có mắt. Lễ mở mắt là một nghi thức khai tâm, một nghi thức thụ pháp. Trong khu vực Ấn Độ, người ta mở mắt cho các pho tượng thần thánh nhằm làm cho tượng có sinh khí, ở các nơi khác, cũng mở mắt cho các mặt nạ; ở Việt Nam, người ta khai sáng cho một chiếc thuyền mới bằng cách chạm trổ hoặc sơn vẽ hai con mắt to ở mũi thuyền.
(Sưu tầm)

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *